Tác phẩm Đỗ Ngọc Thạch trên vanchuongviet.org - trích: Bạn học đại học
Đỗ Ngọc Thạch - văn học & nghệ thuật
www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacgia&action=detail...
Bạn đã truy cập trang này.
Bạn học đại học (truyện ngắn)
Bạn học lớp hai (truyện ngắn)
Bạn học lớp năm (truyện ngắn)
Ba chìm bảy nổi (truyện ngắn)
Ba Lần Thoát Hiểm (truyện ngắn)
Bà chủ quán và Cô nhà báo tập sự (truyện ngắn)
Bà Nội (truyện ngắn)
Bà Ngoại (truyện ngắn)
Truyện ngắn | |
Bạn học đại học | |
Khi con người ta bước qua tuổi 60, tức ở tuổi “lên lão”, tức bước vào nhóm “Người cao tuổi” VN thì coi như đã hết hi vọng “Hồi xuân”, hết hi vọng “Làm lại cuộc đời”! Lúc ấy, người ta thường không sống với thực tại mà sống với ký ức, nhất là đối với những người có nhiều biến động thời tuổi trẻ! Chính sự hoạt động của ký ức đã giúp cho những người “Lên Lão” được thực hiện những chuyến du hành vào quá khứ, những chuyến tốc hành đi ngược thời gian, sống lại những quãng thời gian tưởng chừng như chẳng bao giờ trở lại! Sở dĩ tôi không bị “Lão hóa”, tức mắc những căn bệnh của người già bởi tôi luôn luôn thực hiện những chuyến du hành vào quá khứ và nhiều khi ở lại đó khá lâu nhất là quãng thời gian cắp sách đến trường!
Tôi đã viết nhiều truyện ngắn về thời kỳ học Trung học Phổ thông mà chưa có cái nào về thời gian học đại học khiến cho mấy người bạn học đại học của tôi trách cứ: “Đó mới là giai đoạn có nhiều ý nghĩa quan trọng quyết định số phận cả đời người. Còn những chuyện thời đánh bi đánh đáo, những người bạn thời cởi truồng là chuyện con nít, chẳng có trọng lượng gì cả, người ta quên hết rồi, Delete khỏi bộ nhớ rồi!”. Tôi nghĩ chưa vội tranh luận với bạn mà mở “kho lưu trữ” của thời kỳ này xem thế nào đã vì dù sao cũng đã trên dưới 40 năm, làm sao nhất thời nhớ hết!
*
Khi nhớ về bạn học đại học, tôi cứ bị ám ảnh bởi hai điều: 1/ Tại sao tôi đã học qua hơn mười trường Trung học Phổ thông mà khi lên học Đại học không gặp lại một ai cùng học thời Trung học, mà ở Đại học, tôi học ở những ba lớp (năm 1966 học tại Lớp Toán Cơ, Khoa Toán, Trường ĐHTH HN, năm 1970 tiếp tục học tại Khoa Toán sau 4 năm đi lính, từ 1971 đến 1975 học tại Lớp Văn, Khoa Ngữ Văn, Trường ĐHTH HN) khác nhau chứ đâu chỉ một lớp một trường? 2/ Ở cả ba lớp Đại học, tôi đều phải chứng kiến (hoặc nghe tin) những cái chết thương tâm của những người bạn học và điều lạ lùng là những người bạn này đều là những người bạn rất tốt? (Những người bạn đã chết đó là:1- Khoa Toán 1966: Phan Xuân Vỹ; 2-Khoa Toán 1970: Nguyễn Văn Thạc; 3-Khoa Văn 1971-1975: Lê Văn Thụy, Nguyễn Huy Cừ, Nguyễn Quốc Minh, Phạm Thị Huyền, Nguyễn Thế Hùng).
Ngày đầu tiên trên chuyến tàu tốc hành trở về quá khứ 40 năm trước (chính xác là 44 năm trước, tức năm 1966, khi tôi rời Hải Phòng tới Khoa Toán sơ tán tận huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên), người đầu tiên tôi gặp là Phan Xuân Vỹ. Không phải là cậu trai trẻ Vỹ vừa mới rời trường Trung học Phổ thông Phan Đình Phùng huyện Đức Thọ mà là anh chàng Vỹ đang là Cán bộ giảng dạy tại Khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Vừa nhìn thấy Vỹ mặt mày tươi tỉnh, đầu chải rẽ ngôi, áo sơ mi trắng cổ cồn bỏ trong cái quần simili mới may xanh biếc để đến chỗ hẹn với người yêu…, tôi ào tới toan ôm chầm lấy Vỹ thì thoắt cái đã thấy Vỹ thay đổi y phục như trong tiết mục ảo thuật: Vỹ đang dơ tay chào tôi theo kiểu quân sự và toàn thân xanh màu lá trong bộ quân phục mới toanh! Đây cũng chính là những hình ảnh quen thuộc đối với tôi trong 4 năm tại ngũ nên theo phản xạ tự nhiên, tôi dơ tay chào lại. Chào xong, tôi định tiến lại nắm lấy hai cánh tay Vỹ thì cũng như là phép ảo thuật: anh tân binh Vỹ biến mất mà thay vào đó là xác Vỹ nằm bất động trên cái cáng, toàn thân mọng nước và những cửa ngõ đi vào bên trong cơ thể đều đang rỉ máu! Vĩ đã nằm dưới cái hút nước ấy làm gì suốt một ngày một đêm? Và trong tư thế đang nằm bất động đó, Vỹ đột ngột biến mất như lúc xuất hiện! Rút cục, tôi không nói được gì với Vỹ và Vỹ cũng chưa nói gì!
Ngày thứ hai, rút kinh nghiệm ngày thứ nhất, tôi viết sẵn cái địa chỉ mà tôi muốn tới rồi để lên mặt bàn: Xã Đầm Mây, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Song, khi tôi ấn nút con tàu ngược thời gian thì lại không phải là Đầm Mây, có căn nhà tranh nhỏ nhắn, yên bình nơi tôi trọ học mà lại tới đúng lúc trên một đoạn đường đổ dốc của vùng đồi huyện Đại Từ, tôi đang ngồi trên cái xe thiếu nhi Liên Xô, chở anh bạn Nguyễn Vũ Sơn, và cả hai đang xuống dốc…không phanh! Kết quả là cả hai cánh tay tôi, cả hai đầu gối tôi đều tóe máu vì bị chà sát xuống đường rất mạnh! Vũ Sơn cũng không nhẹ hơn tôi và chúng tôi nhìn nhau không nói nên lời! Tuy nhiên, chính vì có vết thương đó mà cô bạn cùng lớp có cái tên rất hay là Thanh Thanh đã chăm sóc vết thương cho tôi rất tận tình! Đó là lần đầu tiên tôi biết thế nào là sự mềm mại của bàn tay con gái!
*
Những ngày tiếp theo sau đó, “con tàu tốc hành ngược thời gian” đều đưa tôi về địa chỉ Đầm Mây. Tôi và Nguyễn Vũ Sơn cùng trọ ở trong nhà một người dân “bản địa”. Chủ nhà đang tại ngũ, là Hải Quân, đang đóng quân ở Hải Phòng. Ở nhà chỉ có người vợ gần ba mươi tuổi và hai đứa con, một gái, là chị mới 10 tuổi, một trai, là em mới 8 tuổi. Người mẹ và hai đứa con sống bằng nghề hái măng, là một công việc khá phổ biến ở vùng rừng núi này. Trước đây, hái măng giỏi cũng không đủ ăn mà phải làm thêm những việc khác như như trồng khoai sắn, rau cải, bầu bí trên nương rẫy hoặc chăn nuôi gia cầm. Nhưng, từ khi có trường Đại học sơ tán về đây, măng trở thành món hàng có giá bởi bao nhiêu măng ở chợ đều không đủ cho các bếp ăn sinh viên, bởi canh măng (thứ đến là canh rau cải, canh bầu bí, canh củ sắn) là món ăn chủ lực và phải công nhận rằng đó cũng là một món ăn khoái khẩu của người Việt ở mọi nơi!
Khi chúng tôi nhập học là tháng 9, tức cuối Thu, đầu Đông, trời đã bắt đầu lạnh. Mà nói đến mùa Đông giá lạnh không thể không nói đến câu thơ “Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế / Gió qua rừng đèo Khế gió sang…”. Cái rét tuy thế cũng không đáng ngại: chỉ cần mặc quần áo ấm và quá rét thì đốt đống lửa giữa nhà là ổn. Người miền núi thường đốt lửa suốt ngày trong nhà chính là để chống rét. Cái rét có người bạn đồng hành rất nguy hiểm là cái đói. Hai từ “Đói rét” thường đi liền nhau: đã rét thì thấy đói và đã đói thì càng rét! Có lẽ chính vì thế mà “cơm no áo ấm” là ước nguyện muôn đời của người lao động và đó cũng chính là mục tiêu đầu tiên và chính yếu của mọi cuộc cách mạng xóa bỏ sự áp bức, bóc lột!
Nếu có ai hỏi bất kỳ một người nào đã từng qua cuộc đời sinh viên rằng điều gì để lại ấn tượng mạnh nhất thì sẽ nhận được câu trả lời ngắn gọn chỉ có một từ: Đói! Chỉ một từ này thôi nhưng nó chứa đựng tất cả mọi vấn đề của cuộc sống sinh viên và nó sẽ có màu sắc khác nhau tùy thuộc vào thời gian và địa điểm nó tồn tại! Chẳng hạn như khi ở khu sơ tán Đầm Mây này, “hình hài” đặc trưng của nó là chén cơm vơi vơi và tô canh măng lõng bõng (hoặc được thay đổi luân phiên là canh rau cải, canh bầu bí, canh củ sắn…như đã nói trên). Hoặc như sau này, vào năm 1972, khi tôi trở lại cuộc đời sinh viên và lại đi sơ tán (ở Hà Bắc rồi Hà Nam), thì “hình hài” phổ biến của nó có màu sắc “miền xuôi” là lưng cơm “gạo Mậu” (đã hôi, chớm mốc và còn độn khoai, sắn) và tô canh mồng tơi bơi giữa bí bầu và mấy quả cà muối không thể mặn hơn! Các chàng trai, cô gái đang ở độ “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu” mà ăn uống như thế thì làm sao mà “vực được đạo”?
Song, muốn nói gì thì nói, cuối cùng thì mọi chuyện cũng sẽ trôi qua bởi bánh xe thời gian không bao giờ ngừng quay! Vấn đề là ở chỗ người ta vượt qua mọi sự ấy như thế nào? Mỗi người theo cách riêng của mình, song chung qui lại đều gặp nhau ở chữ “Nhẫn”: “Kiên trì và nhẫn nại /Không chịu lùi một phân / Vật chất tuy đau khổ / Không nao núng tinh thần”. Lúc đó, lúc ở Khoa Toán Đầm Mây, tuy tôi còn rất “xa lạ” với văn chương nhưng tôi đã học được sự chịu đựng qua những câu thơ đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và tôi còn học được ở cả ca dao thời kỳ kháng chiến chống Pháp mà tôi không bao giờ quên: “Thằng Tây chớ cậy chân dài / Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày / Thằng Tây chớ cậy béo quay / Chạy ba cây số là mày bở hơi / Chúng tao thức bốn đêm rồi / Ăn cháo ba bữa chạy mười tám cây / Bây giờ tao gặp mày đây / Sức tao vẫn đủ bắt mày hàng tao!”…Quả là phi thường!
Song, nếu thiếu một thứ, rất quan trọng, thì chúng ta sẽ không thể qua nổi cái sự “thử thách” đó của Tạo hóa: đó là Tình bạn! Khi ta thấy giá lạnh, Tình bạn sưởi ấm. Khi ta thấy đói lòng, Tình bạn là chén rượu tình không bao giờ vơi cạn!
Mỗi sáng thức dậy, lúc còn nhỏ sống ở nhà với gia đình, tôi được giao nhiệm vụ dậy sớm làm bữa ăn sáng cho cả nhà. Thường là luộc khoai, sắn hoặc rang cơm nguội, nấu cơm mới. Bữa ăn sáng là một nhu cầu không thể thiếu. Vì thế, tới khu sơ tán Đầm Mây này, tôi phải làm quen với cách sống mới: sáng sáng lên lớp với cái bụng rỗng! Quả là rất khó thích nghi với cung cách này: chỉ ngồi khoảng gần nửa giờ là cái bụng bắt đầu réo sôi! Hình như là tôi nghe thấy cả tiếng réo sôi của những người khác! Và sau đó thì mắt hoa, đầu váng, tai ù…cố định thần cũng không biết là thầy giáo đang nói gì! Và, hết buổi học thì mọi người ngơ ngác nhìn nhau không hiểu chuyện gì đã xảy ra! Có lẽ chỉ có gần chục người là vẫn hoàn toàn tỉnh táo, chắc chắn là buổi sáng đã ăn gì đó hoặc có “tài nhịn đói bẩm sinh”! Tình trạng như vậy diễn ra khoảng ba ngày, thì sang buổi sáng thứ tư, vừa tỉnh dậy, tôi thấy có mùi gì thơm thơm như lạ như quen. Nhìn lên đống sách vở (để trên một cái chõng tre tự tạo) tôi thấy một đĩa khoai luộc, có hai củ khá to, còn đang bốc hơi nóng! Tôi vừa định gọi Vũ Sơn dậy thì anh chàng dường như đã đánh hơi thấy “mùi lạ” và bật ngay dậy, vươn cánh tay vượn ra cầm lấy một củ khoai rồi…ăn ngon lành! Tôi thì phải đi đánh răng xúc miệng xong mới có thể ăn gì được. Khi quay vào thì Vũ Sơn đã ăn xong một củ khoai luộc và nói: “Chắc mày ăn không hết củ khoai kia đâu, bẻ cho tao một nửa, sao hôm nay đói quá mà khoai ai luộc ngon thế?”. Tôi bẻ cho anh chàng háu đói non nửa củ khoai và nói: “Không biết bà Tiên nào đã để đĩa khoai ở đây? Ăn mà không biết ai cho thì thật khó nuốt!”. Vũ Sơn lấy cái điếu thuốc lào, rít một hơi “tụt nõ”, khoan khoái nhả khói rồi mới nói: “Tao với mày có số quý nhân phù trợ, cứ ăn đi, khỏi phải nghĩ ngợi gì cả!”. Nghe Sơn nói vậy, tôi cũng yên tâm, nhưng liên tục sau đó vẫn có những đĩa khoai luộc (có hôm thì là ngô, sắn, lại có cả bánh chưng bánh giò nữa) xuất hiện thì tôi quyết định phải tìm cho ra “Quý nhân phù trợ” kia là ai? Thực ra thì tôi không thể phát hiện ra vì lúc đĩa khoai luộc xuất hiện là lúc chúng tôi ngủ say nhất! Chỉ tình cờ một buổi sáng chủ nhật, tôi và hai người bạn khác là Trúc và Kiên đi chơi chợ Ký Phú thì nhìn thấy Thanh Thanh và Vượng đang ngồi chọn mua khoai với số lượng lớn! Không còn nghi ngờ gì nữa, chắc chắn hai cô bạn này đã thường đem những đĩa khoai luộc sang cho chúng tôi!
Ngay tối hôm chủ nhật đó, tôi qua nhà trọ của hai cô bạn gái thì thấy Thanh Thanh đang rửa khoai. Tôi nói ngay: “Thì ra những đĩa khoai từ đây mà bay qua chỗ chúng tớ!”. Thanh Thanh cười rất duyên, nói như gió thoảng: “Cậu thật là kém, ăn khoai mà không biết ai luộc khoai sao?”. Tôi tròn mắt ngạc nhiên: “Làm sao mà biết được?”. Thanh Thanh lại cười và nói như đùa như thật: “Cậu nhìn cho kỹ nhé, tớ đang phải dùng cả hai bàn tay để chà sát rất mạnh vào củ khoai, như thế mùi bàn tay tớ sẽ còn lại mãi ở củ khoai và khi cậu ăn khoai thì phải nhận ra chứ?”. Tôi ngớ người và thầm nghĩ: “Có thế mà không biết, thật là ngốc”. Và sáng hôm sau, khi vừa nhìn thấy đĩa khoai, hít một hơi thật mạnh, tôi đã nhận ra ngay ở bên trong cái mùi thơm của củ khoai luộc là mùi bàn tay kỳ ảo của cô bạn gái!
Sau đó, tôi và Vũ Sơn quyết định vào rừng kiếm củi để bán cho nhà bếp lấy tiền góp vào “kho khoai sắn” của hai người bạn gái, không thể để cho họ cứ nuôi mình như…nuôi con vậy! Khi tôi và Vũ Sơn vừa tới cửa rừng thì bất ngờ thấy Thanh Thanh hiện ra y hệt như Nàng Tiên hiện ra như trong chuyện cổ tích! Vũ Sơn hỏi: “Cậu đi đâu đấy? Không sợ rắn cắn hổ vồ à?”. Thanh Thanh cười khanh khách: “Người sợ rắn cắn hổ vồ phải là các cậu chứ: người thì chân què, người thì bạch diện thư sinh trói gà không chặt! Tớ đi bảo vệ các cậu đấy!”. Tôi và Sơn đều không tự ái vì câu nói của Thanh Thanh vì…nghe đã quen! Ngược lại, chúng tôi cảm thấy vui vì được bạn gái “quan tâm” đặc biệt như thế! Chúng tôi tiến sâu vào rừng và lần đầu tiên trong đời, tôi được nghe một cô gái xinh đẹp hát trong rừng và hát rất hay! Dường như không phải Thanh Thanh hát mà những bản nhạc rừng đang ngân lên khi trầm khi bổng, khi êm đềm khi réo rắt! Những bài hát được chúng tôi yêu cầu hát lại liên tục hôm đó là “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó”, “Chiếc khăn Piêu”, “Bóng cây Kơ-nia”, “Bài ca trong hang đá”… nhất là bài “Bài ca trong hang đá” viết cho phim “Vợ chồng A Phủ”:…Rừng núi kia có…hai người yêu nhau!... Dường như tiếng hát kỳ diệu của Thanh Thanh đã biến tôi từ một anh chàng bạch diện thư sinh “trói gà không chặt” trở thành một tiều phu thực thụ: tôi chặt củi như điên và khi bó lại được những năm bó, phải để lại trong rừng hai bó, ngày mai vào vác về!
*
Thực ra, tôi và Vũ Sơn không hề yếu đuối như cô bạn Thanh Thanh lầm tưởng. Tôi và Vũ Sơn còn đi kiếm củi ba lần nữa và chỉ ngừng khi anh bạn tên Vàng, quản lý nhà bếp nói: “Từ từ thôi, nhà bếp không có tiền mua củi nữa đâu! Sắp tới có khi phải bắt buộc mỗi người đóng góp một bó củi mỗi tuần!”. Trời ơi, thế là hết đường kiếm ăn rồi sao?
Tôi và Vũ Sơn còn có một kỷ niệm khá mạo hiểm nữa là đi bộ, tất nhiên là băng rừng vượt suối như người vùng cao bản địa, từ huyện Đại Từ qua huyện Phú Lương, vừa đi vừa về gần trăm cây số! Trường Đại học Y Dược Hà Nội đang sơ tán ở huyện Phú Lương. Vũ Sơn có cô bạn gái đang học năm thứ nhất, còn tôi có người chị cả đang học năm thứ ba. Thế là vào một ngày chủ nhật, chúng tôi rủ nhau băng rừng vượt suối qua huyện Phú Lương. Khi hai người đã lọt vào đại ngàn ngút mắt không một bóng người, tôi thoáng thấy ớn lạnh và nói với Vũ Sơn: “Rừng sâu kể cũng đáng sợ đấy chứ? Kể chuyện gì hay hay cho đỡ sợ đi? Hay là kể chuyện về ông bố mày đã viết “Bỉ vỏ” như thế nào, chuyện có thật hay bịa?”. Vũ Sơn làm ra vẻ như đang suy nghĩ gì đó rồi nói: “Tao cũng dự định sẽ viết truyện phiêu lưu mạo hiểm kiểu như “Hai vạn dặm dưới đáy biển” ấy nhưng là chuyện về núi rừng, lấy núi rừng Yên Thế làm bối cảnh! Cái huyện Tiên Sơn nơi tao ở cũng đẹp lắm, thật là sơn thủy hữu tình!”. Nói rồi Vũ Sơn kể tôi nghe câu chuyện về một chàng trai là kỹ sư địa chất, bị lạc trong rừng sâu và gặp chín chín tám mốt kiếp nạn như thầy trò Đường Tam Tạng trong Tây Du ký!... Khi tới đoạn chàng kỹ sư địa chất gặp một bản làng toàn đàn bà con gái thì thật là bất ngờ, chúng tôi đã tới khu sơ tán của trường Đại học Y Dược từ lúc nào! Chúng tôi như lạc giữa một rừng Tiên nữ vì ở trường Đại học Y Dược, sinh viên chủ yếu là nữ chứ không như ở Khoa Toán của chúng tôi chỉ có năm cô gái mà thôi. Đó là Vượng, Thanh, Lan, Hải và Mậu – Ngũ Long công chúa!
*
Sau này, khi tôi từ quân ngũ trở về tiếp tục học tại Khoa Toán (năm 1971) thì các bạn của tôi ở Đầm Mây dạo ấy đã ra trường. Vũ Sơn về làm việc ở một Đoàn Địa chất thuộc Liên Đoàn Địa chất VN, cứ như là có điềm báo trước khi ở trong rừng hôm ấy, Vũ Sơn đã kể cho tôi nghe chuyện về anh chàng Kỹ sư địa chất bị lạc trong rừng! Không biết sau này Vũ Sơn có viết truyện đường rừng không, tôi cũng chưa hỏi lại!
Ở lại Khoa Toán làm cán bộ giảng dạy có Lê Tiến Tam và Phan Xuân Vỹ. Hai người ở trong khu tập thể giáo viên Khoa Toán trong khu Mễ Trì. Sau này, tôi có đến ở cùng phòng với Vỹ một thời gian cho vui. Và cái chết oan nghiệt đã đến với Vỹ khi Vỹ nhập ngũ và bị chết đuối ở nơi huấn luyện tân binh!...Bộ môn Toán học Xác suất mất đi một nhà Toán học trẻ có nhiều triển vọng, gia đình Vỹ mất đi một người con hiếu thảo, những người bạn chúng tôi mất đi một người bạn rất trung thực, nhiệt tình!
*
Tuy sau này tôi chuyển sang học ở Khoa Văn và làm công tác nghiên cứu về văn học, nghệ thuật, rồi làm báo, chẳng còn dính dáng gì đến Toán học nhưng những ký ức về Khoa Toán và những người bạn ở Khoa Toán luôn trở đi trở lại trong ký ức của tôi, cứ như là vừa mới xảy ra, thậm chí như là đang xảy ra. Một lần, một người bạn già thấy tôi hay nói tới Khoa Toán và những người bạn Khoa Toán thì nói: “Lá số Tử vi của cậu rất giống với lá số Tử vi của cái anh bạn Phan Xuân Vỹ ấy! Cậu thoát chết trong gang tấc tới ba lần chính vì cậu đã hoán cải được số mệnh bằng việc chuyển từ Khoa Toán sang Khoa Văn đó!”. Nghe ông bạn già nói mà giật mình! Tuy nhiên, tôi vẫn thấy ân hận vì đã chuyển từ Khoa Toán sang Khoa Văn, vẫn thấy rằng, sai lầm lớn nhất của tôi trong đời là bỏ Khoa Toán sang Khoa Văn!./.
Sài Gòn, tháng 3-2010
| |
Đỗ Ngọc Thạch nguồn: vanchuongviet.org |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét